3 điểm không thể bỏ qua khi đến Huế

Ngày đăng 04/08/2016

Huế không chỉ cuốn hút du khách bởi những nét đẹp cổ kính trong văn hóa, lịch sử, mà còn thu phục lòng người bởi sự thân thiện, dịu dàng, ngọt ngào của con người xứ Huế… Huế càng kiêu sa hơn khi trong lòng Huế có những điểm đến có một không hai ở Việt Nam, Báo Du lịch xin trân trọng giới thiệu 10 điểm đến không thể bỏ qua khi đến Huế…

 

du lịch biển giá rẻ

Chùa Thiên Mụ

1. Chùa Thiên Mụ, kiến trúc cổ đẹp nhất xứ Huế

Chùa Thiên Mụ, trên đồi Hà Khê nằm ngay bên dòng sông Hương thơ mộng, cách trung tâm thành phố Huế chừng 5km, thuộc xã Hương Long. Đến thăm Chùa Thiên Mụ, du khách không chỉ được thưởng ngoạn nét đẹp cổ kính của ngôi chùa trầm mặc soi bóng xuống dòng Hương Giang thơ mộng, mà còn được nghe  những truyền thuyết, thần thoại bí ẩn về chùa và những lịch cổ vật có giá trị như tranh ngang, câu hỏi của cổ, tượng cổ quý hiếm, đồng bia đá chuông… không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị về nghệ thuật.

Truyền thuyết rằng: Cuối thế kỷ 16, chúa Nguyễn Hoàng nhân đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, khi đặt chân đến nơi đây thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ. Cảnh trí tuyệt đẹp phía trước có sông, phía sau có hồ lớn, chúa lấy làm thích thú và ngẫu nhiên khi có một câu chuyện trong vùng về núi đất nổi lên ở đây với câu chuyện truyền miệng trong dân gian là: Vào một đêm nọ, dân trong vùng nhìn thấy trên núi có một bà cụ đầu tóc bạc phơ, mặc áo đỏ quần xanh ngồi hóng mát và nói rằng: tới đây sẽ có một vị chân Chúa đến lập chùa thờ Phật cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này để cầu phúc giúp dân, giúp nước ấm no hạnh phúc, không có chiến tranh loạn lạc… Nói xong bà cụ biến mất. Từ đó dân chúng gọi tên núi ấy là Thiên Mụ Sơn (núi bà trời).

Nghe xong câu chuyện, chúa Nguyễn Hoàng cả mừng liền sai người dựng chùa, viết biển đề chữ Thiên Mụ Tự, đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, thì chùa mới được xây dựng lại quy mô. Năm Ất Tỵ (1665) Chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa. Tháng 4 năm Canh Dần (1710) Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc một quả chuông lớn đường kính 1,4m cao 2,5m nặng 3.285 cân, trên chuông có bài văn của Chúa. Tháng 6 năm Giáp Ngọ (1714), Chúa Nguyễn Phúc Chu lại tiếp tục cho sửa sang và xây dựng thêm nhiều điện, đường huy hoàng, tráng lệ…

Cuối thế kỷ 18, chùa bị chiến tranh tàn phá, năm 1815 và năm 1831, Vua Gia Long và Vua Minh Mạng cho trùng tu và sửa sang lại đẹp hơn. Năm 1844, Vua Thiệu Trị cho dựng thêm ngoài cửa Nghi Môn một cái tháp hình bát giác bảy tầng, cao 21,24m, mỗi tầng thờ một Đức Như Lai, tầng cao nhất thờ Đức Thế Tôn. Tượng thờ ngày ấy đúc bằng vàng sau này được thay bằng tượng đồng. Vua đặt tên tháp là Từ Nhân, sau đổi lại là tháp Phước Duyên. Trước tháp, Vua cho dựng Đình Hương Nguyện ba gian, bộ sườn bằng gỗ được chạm khắc công phu, tinh xảo, hai bên còn dựng thêm hai cái nhà để bia của Vua khắc vào năm 1846, mỗi bia cao 1,70m rộng 0,9m, bia bên hữu ghi nội dung kiến trúc tháp Phước Duyên và đình Hương Nguyện, bia bên tả ghi nhiều bài thơ của Vua. Năm Giáp Thìn (1904), bão lớn ở Huế làm cho chùa bị đổ nát. Năm 1907, Vua Thành Thái cho trùng tu, quy mô chùa từ đây không còn to lớn như trước nữa nhưng vẫn cổ kính trang nghiêm.

Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế. Vua Thiệu Trị liệt cảnh chùa Thiên Mụ vào một trong số 20 thắng cảnh của đất thần kinh.

du lịch biển giá rẻ

Chùa Huyền Không Sơn Thượng

2. Chùa Huyền Không Sơn Thượng

Chùa Huyền Không Sơn Thượng nằm cách thành phố Huế 10km về phía Tây, thuộc thôn Đồng Chầm, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà. Đến chùa, du khách sẽ gặp một không gian tĩnh lặng, kỳ ảo như trong chuyện cổ tích…

Với một cây cầu gỗ bắc qua dòng suối nhỏ nở đầy bông súng đưa khách bước vào Thanh Tâm viên, sân trước tòa Phật điện, ngan ngát hương lan rừng tỏa dìu dịu mê đắm lòng người. Những cây sứ, thiên tuế, tùng, bách… cổ thụ hàng trăm năm tuổi trầm tĩnh bên khoảng sân rộng cùng lao xao tiếng gió đung đưa rặng tre đằng ngà cùng khu rừng trúc, như mời gọi khách tạm dừng chân nghỉ ngơi trước khi bước vào cửa Phật.

Chính điện ở đây là ngôi nhà nhỏ, giản dị, mái thấp và đơn sơ vách gió lùa. Tượng Phật đặt chính giữa gian mà có cảm giác lộ thiên, như hòa thân bất hoại vào vũ trụ, toả tinh thần hỷ xả tới mọi tâm linh, để ngay sau khi dâng hương làm lễ, ta đã có cảm giác thân thuộc với từng góc nhà, từng gốc trúc trong sân chùa. Bên trái là nhà đọc sách, bên phải là nhà sinh hoạt, rải rác phía sau là những căn nhà gỗ nhỏ, nơi xướng họa, tiếp khách của nhà chùa, bộ bàn ghế thấp, bình trà nghi ngút hơi và những cái chén nhỏ sạch sẽ, tạo nên một không gian giản dị mà đầm ấm. Đi qua khu vườn trúc là đến nơi dành cho những người yêu thích văn chương thi phú tìm đến để đàm đạo, bình thơ, ngắm gió trăng mây núi, là nơi các nhà thư pháp tập họp để luyện bút, phô chữ. Có lẽ vì thế, thư pháp hiện diện khắp nơi, khắc trên đá trong vườn, chạm trên gỗ, trang trọng treo trên tường, ghi trên cột cổng tam quan… Đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người, là những cảm xúc bất chợt của các cây bút, là những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng. Nơi đây, dưới gốc cây cổ thụ là bức tượng đá nổi tiếng do cố điêu khắc gia Điềm Phùng Thị tạc, gửi tặng chùa một dáng ưu tư của thiền sư trong bóng núi mây ngàn.

3. Chùa Từ Đàm

Chùa Từ Đàm tọa lạc tại phường Trường An, cách trung tâm thành phố Huế 2km về hướng Nam. Mặc dù chùa không phải là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nhưng chùa có công chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại. Hiện nay chùa Từ Đàm là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Kết cấu chùa Từ Đàm có Tam quan, chùa chính và Nhà Hội.

Cổng tam quan chùa cao, rộng, có mái ngói thanh nhã. Phía sau cổng có cây bồ đề quanh năm tỏa bóng mát. Đây là cây bồ đề được chiết ra từ cây bồ đề nơi Phật đắc đạo do bà Karpeies hội trưởng hội Phật học Pháp thỉnh từ Ấn Độ qua Việt Nam tặng và được trồng vào năm 1936. Sân chùa rộng, bằng phẳng, thoáng mát, đủ chỗ để tập trung hàng nghìn người về dự lễ.

Chùa chính gồm tiền đường, chính điện và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên một nền móng bằng đá hoa cương chạy chỉ, cao 1,5m, mái xây kiểu cổ lầu nên chùa vốn đã cao trông lại càng cao hơn. ở các bờ mái và trên nóc chùa là những cặp rồng uốn cong, mềm mại đối xứng nổi lên trên những dãy ngói âm dương chạy dọc trông thật cân đối, hài hòa, đẹp mắt. Dưới mái cổ lầu có những bức đắp nổi sự tích đức Phật, bố cục trọn vẹn trên các khung đúc. Dọc theo các cột trụ tiền đường là các bức câu đối dài nét chữ sắc sảo. Tả hữu sát với tiền đường có hai lầu chuông trống. Trong điện có pho tượng đức Thế Tôn Thích Ca mâu ni ngồi trên tòa sen. Phía sau chính điện có nhà Tổ, nhà Tăng.

Chùa Từ Đàm xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17. Năm 1703, Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự, từ đó, chùa có tên là Ấn Tôn. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) đổi tên là chùa Từ Đàm. Năm 1936, chùa Từ Đàm là trụ sở hoạt động của An Nam Phật học hội. Cách mạng Tháng Tám, chùa Từ Đàm là trung tâm hoạt động sôi nổi của Phật giáo cứu quốc. Năm 1951, có 51 đại biểu Phật giáo, Bắc - Trung - Nam mở đại hội đầu tiên ở Từ Đàm, đặt nền móng sơ khởi cho công cuộc thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Những năm 60 thế kỷ trước, Từ Đàm là nơi xuất phát của các cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm do chư Tăng và Phật tử kính đạo, yêu nước đứng lên góp sức mình vào sự nghiệp đấu tranh chung của dân tộc. (còn nữa)

Bích Trâm (Sưu tầm và biên soạn)

Nguồn baodulich.net.vn

 

Tin liên quan

X